Quần thể di tích hang chùa Mộ ở phường
Tân Dân (Kinh Môn) bao gồm hệ thống các hang động, nằm gọn trong dãy núi
đá vôi được bao phủ bởi thảm cây xanh đã tạo nên cảnh quan đặc biệt.
Đỉnh hang Tấc có nhiều lỗ thủng đón ánh nắng mặt trời chiếu rọi
Hệ thống hang động và chùa nơi đây gắn
liền với lịch sử hào hùng qua các thời kỳ từ chống giặc phương Bắc đến
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Cảnh quan đặc biệt
Theo nhân dân kể lại, trong thời kỳ chống giặc phương Bắc xâm chiếm, cha
ông ta đã dựa vào khu hang động này để trú ẩn, cất giấu lương thực, của
cải, gia súc và dựng chiến lũy. Dưới sự chỉ huy của hai ông Đặng Đình
Thung và Đặng Đình Tấc, người làng Thượng Chiểu (phường Tân Dân ngày
nay), đã cầm cự chống giặc suốt thời gian dài chỉ bằng vũ khí thô sơ. Để
ghi nhớ công ơn của hai vị chỉ huy dũng cảm và mưu trí, nhân dân đã lấy
tên hai ông ghép lại và đặt tên cho thung động trên cao là Thung Tấc.
Thung Tấc hay còn gọi là hang Tấc là hang động lớn và đẹp nhất trong hệ
thống hang chùa Mộ. Hang nằm cách mặt đất khoảng 16 m, cao khoảng 25 m,
vách hang có nhiều hình thù kỳ dị. Cửa hang rộng chừng 8 m. Trong lòng
hang có nhiều ngách xuyên qua lòng núi. Đỉnh hang có hình chóp và có tới
7 lỗ thủng nhìn rõ ánh mặt trời. Vòm hang cao, cùng với ánh sáng mặt
trời chiếu rọi, những chiếc cây đâm tán lá xanh tươi đón ánh sáng đã tạo
nên một khung cảnh hoang sơ, kỳ vĩ.
Phía tây hang Tấc là hang Trâu, còn có tên là thung Trâu. Vào thời kỳ
giặc Mãn Thanh sang xâm lược nước ta, các làng trong xã đều bị giặc
chiếm đóng. Để tránh những cuộc càn quét của giặc, nhân dân đã mang của
cải, trâu bò tránh vào hang, vì thế có tên là hang Trâu. Hang này nhỏ
hơn hang Tấc, chiều dài khoảng 30 m, chiều rộng 8 m, cao 3 m, lòng hang
khá bằng phẳng nhưng ít ánh sáng mặt trời. Ở đây còn có hang Luồn có
chiều dài khoảng 40 m, cao khoảng 3 m, rộng khoảng 5 m, bề mặt của hang
khá bằng phẳng, vách hang lỗ chỗ ngấn nước vỗ vào vách. Những ngấn nước
khoét sâu vào vách hang là minh chứng của quá trình biển tiến, biển lùi
hàng vạn năm về trước. Phía tây hang Luồn là hang Động Tiên hay còn gọi
là Động Cô Tiên. Hang là một khe nhỏ nằm song song với hang Luồn nhưng
ngắn hơn, phía trên vách đá lởm chởm, phía dưới lòng hang có nước trong
xanh, mát lạnh do chảy từ hệ thống núi đá vôi. Phía bắc là hang Màn dài
chừng 30 m. Phía nam khu hang Động, tiếp giáp với núi đất là động Cồng
Chiêng hay còn gọi là động Chiêng Trống. Nơi đây có những tảng đá nhiều
kích cỡ khác nhau, khi tác động vào đều phát ra âm thanh.
Hang Tấc là hang động lớn và đẹp nhất trong hệ thống hang chùa Mộ
Phía trước hệ thống hang động là chùa
Mộ, còn gọi là Phúc Quang tự. Chùa được khởi công xây dựng từ thời Lê,
trùng tu vào thời Nguyễn. Cũng tại ngôi chùa này, khi đất nước có giặc, 4
vị sư, tiểu đã trút áo cà sa ra chiến trận. Chùa bị giặc Pháp đốt và
san bằng trong một trận càn năm 1952. Năm 1992, nhân dân công đức, xây
dựng lại ngôi chùa trên nền móng cũ.
In dấu lịch sử
Hang chùa Mộ không chỉ là một danh thắng do thiên nhiên tạo ra mà còn là
nơi in dấu nhiều sự kiện quan trọng của quân và dân địa phương. Nơi đây
là an toàn khu của Ủy ban Kháng chiến hành chính các xã Kim Sơn, Hưng
Đạo, Xuân Sơn (Đông Triều, Quảng Ninh), cũng là nơi tập kết của đại đội
Lê Lợi (Quân khu 3). Từ căn cứ này, đại đội đã tiến đánh đồn bốt địch ở
xã Minh Tân (nay là phường Minh Tân) và một số xã ở Đông Triều.
Đầu tháng 1.1948, Huyện ủy Kinh Môn tổ chức họp tại hang chùa Mộ, nhận
định có đợt càn quét lớn vào khu Nhị Chiểu, trong đó có an toàn khu của
ta tại căn cứ hang chùa Mộ. Để thăm dò lực lượng của ta, địch nhiều lần
càn quét vào thôn Thượng Chiểu và khu vực chùa Mộ. Tháng 3.1951, địch
đóng bốt Núi Vành, Hạ Chiểu, tổ chức trận càn quét quy mô đánh vào khu
vực chùa Mộ song chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của lực lượng
bộ đội và dân quân du kích, nên buộc phải rút lui.
Ngôi tam bảo được xây dựng với tổng kinh phí hơn 3,1 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa
Năm 1952, thực dân Pháp mở chiến dịch
càn quét lớn đánh vào khu Nhị Chiểu và hang chùa Mộ. Chúng bao vây toàn
bộ đồi núi xung quanh hang, đóng quân tại các thôn. Đây là chiến dịch ác
liệt nhất, chúng đốt sạch, phá sạch nhà cửa, đình chùa, nghè, miếu, hoa
màu, của cải của nhân dân. Bao vây chặt khu vực hang chùa Mộ suốt 6
tháng nhằm cắt đứt mọi mối liên hệ giữa nhân dân với bộ đội và dân quân
du kích ẩn náu trong hang núi. Nhưng mọi âm mưu, thủ đoạn của địch đều
bị thất bại trước tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội và du kích ẩn
náu trong hang.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, hang chùa Mộ là công xưởng sửa
chữa vũ khí, khí tài của Quân khu 3. Chính nhờ công xưởng này mà nhiều
vũ khí, khí tài được khôi phục góp phần chống chiến tranh phá hoại của
địch ở miền Bắc. Đây cũng là nơi sơ tán, dạy học văn hóa của người dân
trong xã. Năm 1995, hang chùa Mộ được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa
cấp quốc gia.
Khu vực hang được đầu tư kinh phí xây bậc lên hang Tấc để nhân dân và du
khách đến tham quan, vãn cảnh. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch cho phép xây dựng ngôi tam bảo thay thế ngôi tam bảo cũ, xuống cấp
nghiêm trọng (xây dựng từ năm 1992). Tòa tam bảo có 5 gian tiền đường, 3
gian hậu cung với tổng kinh phí hơn 3,1 tỷ đồng bằng nguồn xã hội hóa.
Với sự đóng góp, công đức của nhân dân, phường Tân Dân từng bước xây
dựng theo quy hoạch để quần thể khu di tích là nơi sinh hoạt văn hóa tâm
linh của nhân dân và du khách thập phương.