Đình Khuê Bích được trùng tu, xây dựng vào đầu thế kỷ XX
Nơi đây hiện còn giữ được một số cổ vật từ thời Lê và thời Nguyễn.
Đình Khuê Bích hiện tại được xây dựng
vào năm 1924, toạ lạc cùng ngôi chùa trên khu đất phía nam của thôn Khuê
Bích. Theo các cụ trong làng kể lại, đình cổ vốn được xây dựng khá sớm,
cách đây từ 300 - 400 năm, nằm trên khu đất rộng tại một gò đống cao
được gọi là Đồng Mang. Đình có quy mô lớn, đủ nơi thờ tự và cổ vật quý.
Tục xưa truyền rằng, địa điểm đặt đình ở xa dân cư không tiện cho việc
tế lễ nên nhân dân địa phương đã chuyển đình về vị trí hiện nay, cách
đình cũ khoảng 300 m.
Đình thờ 3 vị Thành hoàng làng là Nguyễn Thiện, Lê Quảng, Quế Anh phu nhân
Như bao đình làng khác, đây là nơi thờ
người có công với nước, với dân. Đình thờ 2 vị tướng quân là Nguyễn
Thiện và Lê Quảng (quê ở TP Chí Linh ngày nay) làm quan dưới thời nhà
Trần. Là người học rộng, tài cao, với lòng yêu nước thương dân, trước
cảnh đất nước bị ngoại xâm đe doạ, 2 ông đã tập hợp hơn 3 vạn binh sĩ
gia nhập quân đội nhà Trần đánh giặc Nguyên Mông, lập chiến công hiển
hách góp phần giữ yên bờ cõi giang sơn. Sau chiến thắng tại trận Bạch
Đằng, hai ông đem quân về hạ trại tại Hiệp Sơn (nay là thị xã Kinh Môn)
khao quân mừng chiến thắng.
Ngoài ra, đình còn thờ Quế Anh phu nhân,
vợ của tướng Lê Quảng. Bà là người văn võ toàn tài, có nhiều mưu kế
giúp chồng đánh giặc ngoại xâm.
Đình Khuê Bích đã được các vị vua triều Nguyễn là Duy Tân, Thành Thái, Khải Định phong sắc thờ 3 vị Thành hoàng trên.
Ông Nguyễn Hữu Phấn, Trưởng Ban Quản lý di tích giới thiệu kiến trúc “long chầu mặt nguyệt” trên mái đình
Đình Khuê Bích có kiến trúc chữ Đinh gồm
5 gian tiền đường và 1 gian hậu cung. Phần hậu cung được trang trí nội
thất cân đối với các đồ thờ được sơn son thiếp vàng. Các cột và vì kèo
được làm bằng gỗ lim với hoạ tiết chạm trổ theo kiểu hoa văn thời
Nguyễn. Hai bên hậu cung là 2 tiến sĩ đá, trước sân đình đặt 2 đôi ngựa
đá và voi đá do quan Thượng Quận đưa về cách đây khoảng 300 năm. Mái
đình có kiến trúc truyền thống “long chầu mặt nguyệt".
Cách đình 50 m về phía Bắc là chùa Diên
Thọ, hay còn gọi là chùa Khuê Bích. Chùa được trùng tu vào đầu thời
Nguyễn. Chùa có kết cấu hình chữ Đinh với 5 gian tiền đường và 3 gian
hậu cung, phía trước chùa có một hồ nước nhỏ. Chùa này từng có 4 pho
tượng đá được chạm khắc hoa văn từ thời hậu Lê, có giá trị nghệ thuật
cao. Tuy nhiên, theo thời gian, hiện tại chỉ còn 1 pho tượng Phật tổ.
Ngoài ra, các cổ vật còn lại đều từ thời Nguyễn như 14 pho tượng bao gồm
Tam thế Phật, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Cửu Long… và các câu đối có
nội dung ca ngợi Phật, phong cảnh nơi đây.
Được biết, trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, đình, chùa Khuê
Bích là nơi nương tựa để cán bộ, nhân dân địa phương hoạt động cách
mạng. Đây là nơi thành lập đội quân du kích chống càn của xã, là trạm
chuyển tiếp giao liên của Quân khu 3.
Tượng tiến sĩ bằng đá được đặt ở hậu cung đình Khuê Bích
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
đình, chùa Khuê Bích được Tỉnh đội chọn làm địa điểm đào tạo, huấn luyện
hàng nghìn chiến sĩ vào Nam chiến đấu.
Ông Nguyễn Hữu Phấn, Trưởng Ban Quản lý di tích đình chùa Khuê Bích cho
biết: “Di tích này từng có nhiều cổ vật, song do chiến tranh tàn phá,
quản lý chưa được chặt chẽ nên mất mát nhiều. Hiện tại, Ban Quản lý di
tích vẫn còn giữ 5 sắc phong thời Nguyễn”.
Đình, chùa Khuê Bích là một quần thể tôn
nghiêm được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia
vào năm 1995. Cùng với những di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh khác
của thị xã Kinh Môn, đình chùa Khuê Bích hằng năm thu hút nhiều lượt
khách đến vãn cảnh, chiêm bái.