Với 40 năm tuổi đời, 20 năm hoạt động
cách mạng liên tục và nhiệt huyết, Tổng Bí thư Lê Hồng Phong đã hiến
dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc
ta.
Tổng Bí thư Lê Hồng Phong (6.9.1902 - 6.9.1942)
Cuộc đời của đồng chí là tấm gương
sáng ngời về đạo đức cách mạng, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước,
trọn đời hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Nhà lãnh đạo tài năng của Đảng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tổng Bí thư Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 6.9.1902
trong một gia đình nông dân ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, huyện
Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) -
vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng.
Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống yêu nước, với nhiều sĩ
phu nổi tiếng, lại chứng kiến cảnh đất nước lầm than, nhân dân lao động
bị áp bức, bóc lột, Lê Hồng Phong đã sớm nuôi trong mình tư tưởng yêu
nước và ý chí làm cách mạng. Sau khi học hết bậc Sơ học yếu lược, đồng
chí rời quê ra thành phố Vinh, làm công nhân tại nhà máy diêm Bến Thủy;
vận động công nhân đứng lên đấu tranh. Sau đó đồng chí quyết tâm bôn ba
tìm đường cứu nước.
Cuối năm 1923, Lê Hồng Phong cùng Phạm Hồng Thái bí mật sang Xiêm (Thái
Lan) gặp các nhà yêu nước Việt Nam. Năm 1924, Lê Hồng Phong sang Quảng
Châu (Trung Quốc) gia nhập nhóm Tâm Tâm xã và sau đó được gặp lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, được Người giác ngộ cách mạng. Kể từ đó đồng chí quyết
tâm đi theo con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và
tham dự lớp huấn luyện cán bộ do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở
thành một trong những cán bộ lãnh đạo lớp đầu tiên của cách mạng nước
ta. Đồng chí đã được học tập toàn diện về quân sự và chính trị tại
Trường Quân sự Hoàng Phố, Trường Không quân ở Quảng Châu (Trung Quốc),
Trường Lý luận quân sự của lực lượng không quân Xôviết ở Lêningrat,
Trường Đào tạo phi công quân sự ở Bôritơlepxcơ (Liên Xô). Sau khi tốt
nghiệp, đồng chí hoạt động trong lực lượng Hồng quân Xôviết và nhận
trọng trách liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản.
Trong thời gian này, đồng chí được học tập lý luận cách mạng một cách
hệ thống tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva,
tốt nghiệp khóa ba năm (1928-1931), sau đó vào học tiếp năm thứ nhất
lớp nghiên cứu sinh.
Sau cao trào Xô Viết Nghệ-Tĩnh (1930-1931), do sự khủng bố dã man và tàn
bạo của thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam gặp muôn vàn khó khăn và tổn
thất nặng nề. Hầu hết các Ủy viên Trung ương, các Xứ ủy viên đều bị bắt
hoặc bị sát hại; hàng trăm cán bộ, hàng nghìn đảng viên bị bắt bớ, tù
đày. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phần nhiều bị tan vỡ hoặc
tê liệt. Trước tình hình đó, tháng 11/1931, theo chỉ thị của Quốc tế
Cộng sản, Lê Hồng Phong về nước để lãnh đạo việc khôi phục, phát triển
tổ chức đảng, đưa cách mạng Đông Dương vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Đầu năm 1932, khi đến thành phố Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), đồng
chí đã chắp nối liên lạc với các đồng chí trung kiên, cùng vạch ra
Chương trình hành động của Đảng, được Quốc tế Cộng sản thông qua. Chương
trình hành động của Đảng là một văn kiện chính trị quan trọng, khẳng
định sự đúng đắn và nhất quán với đường lối cách mạng được Đảng ta vạch
ra từ năm 1930, đánh giá cao thắng lợi của quần chúng cách mạng trong
cao trào 1930-1931, đồng thời chỉ ra những sai lầm trong Đảng và đề ra
yêu cầu kiên quyết khắc phục sai lầm, đưa cách mạng tiến lên.
Tháng 3.1934, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí tiến hành Hội nghị
thành lập Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước (lúc đó gọi là Ban Chỉ huy ở
ngoài của Đảng). Ban Chỉ huy có chức năng như một Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời do đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư, đồng chí Hà Huy Tập
là Ủy viên phụ trách công tác tuyên huấn. Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng
đã chuẩn bị và quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp
tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến 31.3.1935. Đại hội đã thông qua
Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, một số văn kiện quan trọng khác và
bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 Ủy viên do đồng chí Lê Hồng Phong
đứng đầu.
Cuối năm 1934, Lê Hồng Phong dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội
VII Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (Liên Xô) từ ngày 25.7 đến
25.8.1935. Đồng chí đã trình bày một bản báo cáo quan trọng về cuộc đấu
tranh của các dân tộc ở Đông Dương và đã được Đại hội đánh giá cao. Đại
hội đã thông qua quyết nghị công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một
phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản và bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm
Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản; được Đại hội lần thứ I của Đảng
Cộng sản Đông Dương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Tháng 7.1936, tại Thượng Hải, đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị
Trung ương bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất, chỉ đạo chuyển hướng
tổ chức và sách lược của Đảng, chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất
nhân dân phản đế rộng rãi, bao gồm các hình thức đấu tranh, hình thức
hoạt động phong phú từ bí mật, bất hợp pháp đến công khai, bán công
khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, nhằm mục đích "dự bị điều kiện cho cuộc
vận động dân tộc giải phóng được phát triển", chuẩn bị về mọi mặt để đưa
phong trào cách mạng chuyển sang cao trào 1936-1939.
Tháng 11.1937, trở về Sài Gòn sau 15 năm học tập và hoạt động ở nước
ngoài, đồng chí cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng ta trong tình hình mới, góp phần tạo ra
sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng nước ta trong thời kỳ Mặt
trận dân chủ.
Với ý chí kiên trung của người cộng sản, Lê Hồng Phong và những chiến sĩ
cộng sản đã lãnh đạo Đảng ta vượt qua giai đoạn khó khăn của cuộc vận
động giải phóng dân tộc và trở thành một trong những nhà lãnh đạo có ảnh
hưởng thúc đẩy lịch sử phát triển của Đảng và dân tộc tiến lên.
Tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường
Trong sự nghiệp cách mạng, đồng chí Lê Hồng Phong không chỉ là người
lãnh đạo kiên định và tài năng của Đảng, mà còn là tấm gương người cộng
sản kiên cường.
Ngày 22.6.1939, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất tại Chợ Lớn
và kết án 6 tháng tù giam. Ngày 23.12.1939 chúng đưa đồng chí về quản
thúc tại quê nhà ở Nghệ An. Ngày 20.1.1940, đồng chí bị thực dân Pháp
bắt lần thứ hai, giam tại khám Lớn, Sài Gòn.
Cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. Tại đây, biết Lê Hồng
Phong là nhân vật quan trọng của Đảng, thực dân Pháp dùng đủ loại nhục
hình man rợ nhất để dày vò đến cực độ thể xác, nhưng không mảy may làm
nao núng được ý chí sắt thép của đồng chí.
Sức khỏe suy kiệt dần vì đòn thù và bệnh tật, đồng chí đã trút hơi thở
cuối cùng vào trưa 6.9.1942 sau khi đã nhắn lại "nhờ các đồng chí báo
cáo với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng
tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng".
Đánh giá về lớp cán bộ tài năng, trung kiên bất khuất thời dựng Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú,
đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh
Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn
Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng,
của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó
đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ
vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết
thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các
đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên
cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”.
Có thể nói, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, với vai trò Ủy
viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Lê Hồng Phong có rất
nhiều đóng góp vào việc hình thành chủ trương, đường lối của Đảng, góp
phần đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới đúng với
những tư tưởng chỉ đạo của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Dù ở cương vị và điều
kiện nào, đồng chí Lê Hồng Phong cũng luôn thể hiện một tấm gương sáng
ngời của người cộng sản: sống vì Đảng, chết không rời Đảng, trọn đời hy
sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Theo TTXVN