Theo nhận định của Niels Graham, Phó
Giám đốc Trung tâm Địa kinh tế thuộc Hội đồng Đại Tây Dương, khi các
nước G7 nhóm họp ở Hiroshima (Nhật Bản) dự kiến diễn ra từ ngày 19-22.5,
họ sẽ tập trung vào việc làm thế nào để tăng thêm áp lực kinh tế đối
với Nga. Trong khi đó, các thành viên G7 vẫn xuất khẩu khoảng 4,7 tỷ USD
mỗi tháng sang Nga, tương đương khoảng 43% so với những gì họ đã làm
trước khi cuộc xung đột ở Ukraine nổ ra.
Hiện Mỹ muốn tiến xa hơn và đã đề xuất
thay thế chế độ trừng phạt theo từng ngành hiện có bằng lệnh cấm xuất
khẩu hoàn toàn (có miễn trừ đối với thực phẩm và các sản phẩm y tế). Nếu
được thực hiện như đề xuất, xuất khẩu hiện tại của G7 sang Nga sẽ giảm
thêm hơn 60%. Nhưng điều này sẽ không dễ dàng đạt được, theo ông Graham.
Sau 15 tháng xung đột Nga-Ukraine, G7 đã
thực hiện hàng loạt biện pháp kinh tế nhằm vào Moskva và nhận được sự
đồng thuận trong nhóm. Các lựa chọn còn lại sẽ ngày càng gây tranh cãi
và sẽ gây tổn thất lớn hơn cho nền kinh tế trong nước của chính các nước
G7. Để hiểu cuộc tranh luận về lệnh cấm xuất khẩu hoàn toàn sẽ diễn ra
như thế nào, điều quan trọng là bắt đầu bằng việc phân tích những mặt
hàng mà các nền kinh tế G7 vẫn xuất khẩu sang Nga.
Xuất khẩu còn lại của G7 sang Nga
Kể từ khi xung đột ở Ukraine diễn ra vào
năm ngoái, G7 đã thực hiện chế độ kiểm soát xuất khẩu và trừng phạt lớn
nhất từng áp đặt đối với một nền kinh tế lớn của thế giới. Xuất khẩu từ
G7 sang Nga đã giảm khoảng 5,7 tỷ USD mỗi tháng so với mức trung bình
trước xung đột, dẫn đến tổng xuất khẩu giảm 57%.
Điều này đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể
trong thương mại các hàng hóa quan trọng như máy móc và thiết bị cơ khí
(giảm 64,6%), ô tô và xe tải (giảm 77,4%). Xuất khẩu máy bay đã bị ảnh
hưởng đặc biệt sau các biện pháp trừng phạt và kiểm soát sâu rộng đối
với các sản phẩm được sử dụng bởi ngành hàng không và vũ trụ với xuất
khẩu G7 giảm khoảng 98,6%, ước tính tương đương là 4,03 tỷ USD.
Tuy nhiên, các thành viên G7, dẫn đầu là
EU, tiếp tục xuất khẩu khoảng 4,7 tỷ USD mỗi tháng sang Nga. Các mặt
hàng xuất khẩu lớn nhất kể từ tháng 3/2022 là dược phẩm, máy móc, thực
phẩm và hóa chất.
Tác động kinh tế
Từ tháng 3.2022 đến tháng 12.2022, xuất
khẩu hàng hóa của G7 đạt tổng cộng khoảng 46,8 tỷ USD. Các quan chức Mỹ
hy vọng sẽ thay đổi điều này. Thất vọng với cơ chế hiện tại mà
Washington coi là quá mềm mỏng và cho phép Moskva tiếp tục nhập khẩu
công nghệ phương Tây, Mỹ đã đề xuất một lệnh cấm xuất khẩu hoàn toàn với
các miễn trừ chủ yếu đối với thực phẩm và các sản phẩm y tế. Nếu được
thực hiện như đề xuất, một hạn chế như vậy có thể làm giảm thêm xuất
khẩu của G7 sang Nga khoảng 67%, xuống chỉ còn 1,5 tỷ USD một tháng.
Đối với Mỹ, sự đánh đổi của lệnh cấm
xuất khẩu hoàn toàn là tối thiểu khi nước này hiện chỉ xuất khẩu khoảng
80 triệu USD hàng tháng sang Nga. Tuy nhiên, đối với EU và Nhật Bản, lần
lượt chiếm 89% và 7% xuất khẩu còn lại của G7 sang Nga, yêu cầu như vậy
có thể là một bước đi quá xa. Cả Brussels và Tokyo đã báo hiệu một đề
xuất như vậy “có thể không thực tế”.
Đối với nhiều nước trong EU, Nga vẫn là
một thị trường xuất khẩu quan trọng. 8 trong số 27 quốc gia thành viên
của EU vẫn duy trì hơn 1% tổng kim ngạch xuất khẩu của họ sang Nga,
trong đó đáng chú ý là Latvia và Litva vẫn đảm bảo 9,7% và 5,7% kim
ngạch xuất khẩu hàng tháng tương ứng của họ.
Trong khi đó, các nước lớn ở châu Âu như
Đức, Italy và Hà Lan xuất khẩu hàng hóa trị giá hàng trăm triệu USD
sang Nga. Sau 10 vòng trừng phạt, các nhà hoạch định chính sách G7 đã áp
đặt các biện pháp hạn chế bao trùm gần như tất cả các lĩnh vực chiến
lược quân sự. Những gì còn lại là các dòng thương mại ít quan trọng hơn
như xuất khẩu sô cô la của Đức hoặc nước hoa của Tây Ban Nha.
Trong khi sự thống nhất của EU xung
quanh việc hỗ trợ cho Ukraine vẫn còn mạnh mẽ, các cuộc thăm dò gần đây
cho thấy công dân châu Âu đang ngày càng lo lắng về tác động tiêu cực
của cuộc xung đột. Đối với các nhà lãnh đạo ở Brussels, lệnh cấm xuất
khẩu có thể không thực tế với nhiều quốc gia thành viên khi họ muốn yêu
cầu cắt giảm và miễn trừ cho các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng của họ
như đã làm với các đợt trừng phạt trước đó.
Đối với Nhật Bản, sự phản đối bắt nguồn
từ lo ngại rằng Moskva có thể đáp trả bằng cách ngừng giao dịch năng
lượng. Mặc dù nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Nhật Bản từ Nga
ban đầu giảm ngay sau khi xung đột nổ ra, nhưng nó đã phục hồi với LNG
của Nga chiếm trung bình 7,8% tổng lượng nhập khẩu của Tokyo, chỉ giảm
nhẹ so với mức trung bình trước xung đột là 9,1%.
Đây không phải là lần đầu tiên sự phụ
thuộc của Nhật Bản vào xuất khẩu LNG của Nga cản trở việc thực hiện đầy
đủ các chính sách của G7. Đến cuối năm ngoái, Tokyo vẫn được miễn trừ áp
trần giá dầu của G7 để đảm bảo Nga vẫn có thể vận chuyển một lượng nhỏ
dầu thô được khai thác cùng với khí đốt tự nhiên mà nước này xuất khẩu
sang Nhật Bản. Nhật Bản phản đối các biện pháp của G7 không phải là
không có lý do.
Nhật Bản là quốc gia nghèo tài nguyên và
có môi trường an ninh năng lượng dễ bị tổn thương nhất trong G7. Tỷ lệ
tự túc năng lượng của Nhật Bản chỉ là 11%, thấp hơn nhiều so với Mỹ
(106%), Canada (179%), Anh (75%), Pháp (55%) và thậm chí cả Đức (35%).
LNG, giúp cung cấp khoảng 36% điện năng của Nhật Bản vào năm 2021, đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các doanh nghiệp và người tiêu
dùng có đủ năng lượng thiết yếu.
Tóm lại, ông Graham cho rằng việc xem
xét lệnh cấm xuất khẩu tiếp theo đặt ra những thách thức lớn hơn mà các
nhà lãnh đạo G7 sẽ phải đối mặt ở Hiroshima. Các nhà lãnh đạo G7 đã đồng
thuận thực hiện gần như tất cả các biện pháp kinh tế được thiết kế để
giảm nguồn lực cung cấp cho quân đội Nga. Nhưng có một lý do khiến các
tùy chọn còn lại chưa được thực hiện: chúng có vấn đề và sẽ làm căng
thẳng cho sự đồng thuận vốn mong manh của G7 đối với Nga.