Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, rèn luyện từ mùa xuân năm 1930 và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhờ đó đất nước Việt Nam “có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1).
Hiện thực lịch sử vẻ vang
đó được toàn dân tộc thừa nhận, tự hào và bạn bè quốc tế khâm phục, quý
trọng. Đó là sự thật, không ai có thể phủ nhận. Nhưng vẫn có những thế
lực thù địch, phản động ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc
lịch sử Đảng hòng hạ thấp và chống phá sự lãnh đạo của Đảng.
1. Có một số thế lực cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và
tầm vóc, giá trị lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Họ coi
đó chỉ là sự “ăn may” của cộng sản, Việt Minh. Thực tế lịch sử đã khẳng
định Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của các phong trào cách
mạng diễn ra liên tục suốt 15 năm với sự lãnh đạo của Đảng từ cao
trào Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải
phóng dân tộc 1939-1945.
Trong phong trào giải phóng dân tộc, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã
phát triển, hoàn thiện đường lối, đặt mục tiêu giành độc lập dân tộc lên
hàng đầu; xây dựng lực lượng chính trị rộng lớn, đoàn kết toàn dân tộc
trong Mặt trận Việt Minh; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn
cứ địa cách mạng rộng khắp trên cả nước; xác định phương pháp đấu tranh
đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính
quyền; dự báo và nắm bắt thời cơ cách mạng. Đó là những điều căn bản và
quyết định thắng lợi của cách mạng.
Điểm nổi bật có giá trị lý luận và thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám
là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn vấn đề tranh thủ thời
cơ, đẩy lùi nguy cơ. Thời cơ bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng
lợi là: Cao trào cách mạng của nhân dân cả nước phát triển mạnh mẽ (Đảng
đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước ngay sau khi Nhật đảo chính
Pháp ngày 9-3-1945); kẻ địch lâm vào khủng hoảng, hoang mang, mất sức
chiến đấu (Pháp chạy, Nhật hàng Đồng minh); các tổ chức đảng và Việt
Minh đủ mạnh trên cả nước, quyết tâm lãnh đạo đưa quần chúng vào hành
động cách mạng. Cùng với nắm bắt thời cơ, Đảng đã chỉ rõ nguy cơ: Quân
Đồng minh (Anh và Trung Hoa dân quốc) kéo vào giải giáp quân Nhật và lợi
dụng danh nghĩa đó để xâm chiếm Việt Nam; lợi dụng sự thất bại của
Nhật, quân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước ngày 9-3-1945. Đảng
đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào và trước
khi quân Pháp quay lại.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang từ ngày 14
đến 15-8-1945 quyết định tổng khởi nghĩa với nguyên tắc chỉ đạo: Tập
trung, thống nhất, kịp thời và nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa
cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đã xóa bỏ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ và chế độ quân chủ
phong kiến hàng nghìn năm, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên
độc lập, tự do với bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
|
Ảnh minh họa: TTXVN |
2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954) do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo là cuộc kháng chiến thần thánh với những chiến công vẻ vang mà đỉnh
cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Bạn bè quốc tế
nhắc đến Điện Biên Phủ gắn liền với Việt Nam-Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp.
Vậy mà đến nay vẫn có thế lực cố tình xuyên tạc. Họ cho rằng có thể
tránh được cuộc chiến tranh "nếu phía Việt Nam không hiếu chiến".
Sự thật đã bác bỏ quan điểm sai trái đó. Trong Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn
hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần
nữa”.
Lập trường hòa bình và sự nhân nhượng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hòa rất rõ ràng. Khi kháng chiến diễn ra ở Nam Bộ, ngày 6-3-1946,
Hồ Chí Minh đã ký với J.Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Hà Nội bản
Hiệp định Sơ bộ cho phép 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội
Trung Hoa dân quốc; Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có Chính
phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng trong liên bang Đông Dương
và thuộc khối liên hiệp Pháp. Đó là sự nhân nhượng rất lớn nhưng cần
thiết mặc dù Pháp chưa công nhận Việt Nam độc lập và còn phải ở trong
khối liên hiệp Pháp. Nhân nhượng đó thể hiện mong muốn hòa bình và quan
hệ thân thiện với nước Pháp. Để thúc đẩy quá trình đó, ngày 25-4-1946,
đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu thăm nước Pháp.
Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội thăm chính thức nước
Pháp với mong muốn hòa bình và hợp tác giữa hai nước. Ngày 6-7-1946,
cuộc đàm phán Việt-Pháp bắt đầu ở Fontainebleau (Pháp). Do phía Pháp
không thành thật muốn đàm phán nên giải pháp hòa bình không thành. Trước
khi trở về nước ngày 14-9-1946, Hồ Chí Minh ký bản Tạm ước với Bộ
trưởng Hải ngoại Pháp Moutet nhân nhượng một số quyền lợi của Pháp ở
Việt Nam. Ngày 18-10-1946, về đến cảng Cam Ranh, Hồ Chí Minh gặp Cao ủy
Pháp D’Argenlieu trao đổi về thực hiện Tạm ước 14-9.
Sau khi ra miền Bắc, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn, vi phạm Hiệp
định Sơ bộ 6-3. Ngày 20-11-1946, Valluy, Quyền Cao ủy Pháp, ra lệnh cho
quân Pháp tấn công Hải Phòng. Ở Hà Nội, quân Pháp trắng trợn dùng vũ lực
và đòi kiểm soát thành phố. Trước hành động chiến tranh của Pháp, dân
tộc Việt Nam buộc phải chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Sau ngày
toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc
hội Pháp mong muốn chấm dứt chiến sự, nối lại đàm phán nhưng phía Pháp
không đáp lại. Bàn tay hòa bình của Việt Nam đưa ra nhưng phía Pháp đã
không đáp lại bằng thái độ hòa bình. Chính phủ Pháp đã lao sâu vào cuộc
chiến tranh mà chính người Pháp gọi là chiến tranh phi nghĩa, “chiến
tranh bẩn thỉu” để cuối cùng nhận lấy thất bại đau đớn.
3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) phải vượt qua
nhiều gian khổ, hy sinh mới đi đến Ngày toàn thắng 30-4-1975, thực hiện
khát vọng hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc. Chính giới
Hoa Kỳ và các tướng lĩnh Mỹ thừa nhận hành vi chiến tranh của họ ở Việt
Nam, những bài học và nguyên nhân thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt
Nam. Nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại Việt Nam có lời sám hối về cuộc chiến
tranh phi nghĩa của Chính phủ Mỹ và những tội ác do họ gây ra, mong
muốn được góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là sự tàn phá của
chất độc da cam/dioxin. Vậy mà vẫn có những tiếng nói lạc lõng, trắng
trợn, coi chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc “nội chiến” giữa phe
cộng sản và phe quốc gia. Đó là sự xuyên tạc lố bịch nhất.
Năm 1950 mở đầu sự can thiệp của Mỹ khi tàu chiến Mỹ đến cảng Sài Gòn
và ngày 19-3-1950, 30 vạn nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ can
thiệp. Sau thảm bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (7-5-1954), tháng 6-1954,
Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng trong Chính phủ Bảo Đại do Pháp
dựng lên từ ngày 13-6-1949. Đó là sự chuẩn bị để Mỹ thay thế Pháp ở Việt
Nam. Sau Hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7-1954), Việt Nam tạm chia
làm hai miền với Vĩ tuyến 17. Ở miền Nam, Mỹ chính thức thay chân Pháp
khi quân Pháp rút hết về nước (28-4-1956). Mỹ dựng lên chính quyền Việt
Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, thực hiện chủ nghĩa thực
dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, từ chối hiệp thương với miền Bắc để
tổng tuyển cử thống nhất đất nước như quy định của Hiệp định Geneva, mưu
toan chia cắt lâu dài nước Việt Nam.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là bất hợp pháp, giả
hiệu; là phản dân, hại nước. Ngụy là giả. Vì vậy, chính quyền và quân
đội do Mỹ xây dựng được gọi là ngụy quyền, ngụy quân. Họ không đại diện
cho quốc gia, dân tộc dù họ tự gọi mình là "chính phủ quốc gia", “chính
nghĩa quốc gia”. Ngày 13-5-1957, tại Mỹ, Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên
bố: “Biên giới của Hoa Kỳ kéo dài đến Vĩ tuyến 17”(2). Lời
tuyên bố đó và cả hành động thực tế đã cho thấy bản chất của một chính
quyền tay sai, bán nước, công cụ chiến tranh của Mỹ, hoàn toàn lệ thuộc
vào Mỹ suốt đến sau này. Khi chính quyền đó không đáp ứng được lợi ích
của Mỹ thì Mỹ sẵn sàng gạt bỏ, “thay ngựa giữa dòng”. Cái chết bi thảm
của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 đã
chứng tỏ điều đó.
Mỹ đã lần lượt thất bại trong mô hình thực dân mới ở miền Nam Việt
Nam; trong “Chiến tranh đặc biệt” 1961-1964, “Chiến tranh cục bộ”
1965-1968 và “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969-1975. Có những hành động
chiến tranh vô cùng tàn bạo của Mỹ như rải chất độc hóa học hủy diệt sự
sống ở miền Nam (10-8-1961); ném bom miền Bắc từ ngày 5-8-1964; ồ ạt đưa
quân Mỹ tham chiến ở miền Nam (8-3-1965); sử dụng lượng vũ khí lớn ở
Thành cổ Quảng Trị; ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối
tháng 12-1972. Cuối cùng, quân Mỹ đã thất bại, chấp nhận ký Hiệp định
Paris (27-1-1973), rút hết quân Mỹ về nước. Cách mạng Việt Nam phát
triển, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
4. Vào những năm 1988-1991, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng trầm trọng. Do chủ nghĩa xét lại, cơ hội, sự suy thoái trong các
Đảng Cộng sản cầm quyền và sự phản bội đã dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ
nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Lợi dụng tình hình đó, các
thế lực thù địch, phản động ở Việt Nam cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ
nghĩa xã hội đã thất bại. Họ coi việc truyền bá lý luận Mác-Lênin vào
Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
là sai lầm. Họ đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ sự lãnh đạo, thực hiện
chế độ đa đảng và đa nguyên chính trị, xóa bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa.
Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn, đề ra các
nguyên tắc chỉ đạo đổi mới kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và Bác Hồ dứt khoát lựa chọn từ năm 1930; trung thành và vận dụng, phát
triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, bác bỏ đa nguyên, đa đảng. Đảng đề ra
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" (1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, quốc
phòng, an ninh được giữ vững, hội nhập quốc tế và đối ngoại ngày càng mở
rộng, đời sống về mọi mặt của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Việt Nam vẫn vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
công bố tác phẩm quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đó là
công trình tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nhất là trong thời kỳ đổi mới, làm sáng tỏ mục tiêu, mô hình chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam, các giải pháp và quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội
phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn Việt Nam, đóng góp vào kho
tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bản chất của chủ nghĩa
xã hội Việt Nam là vì nhân dân, vì con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là
thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp
lên phẩm giá con người”(3).
Đất nước và dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo đang phát triển mạnh
mẽ, vững chắc trên con đường đúng đắn dựa trên cơ sở khoa học và hiện
thực. Mọi sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng
không cản trở được khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, hùng cường,
phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.
-----------------------------------------------------------------------------------
(1) Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, trang 25.
(2) "Ngoại giao Việt Nam 1945-2000", NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, H.2002, trang 477.
(3) Nguyễn
Phú Trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", NXB Chính trị Quốc gia Sự
thật, H.2022, trang 21.
Theo qdnd.vn