Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) thông
qua đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Thực
tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đã minh chứng rằng, nhờ có
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đường, cách mạng Việt Nam
đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc và
đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng cũng
cho thấy, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai cấu phần
hợp thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và hai
yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau, không thể thiếu một yếu tố nào.
Tuy
nhiên, thời gian qua đã xuất hiện một số ý kiến muốn tách rời chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí còn tìm cách luận giải cho
rằng chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với cách mạng Việt Nam, còn
chủ nghĩa Mác-Lênin là “tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân
tộc”, không phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và đã bị chối bỏ ở
nơi quê hương của nó, “du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là một
sai lầm lịch sử”(2); do đó chỉ cần nói đến tư tưởng Hồ Chí
Minh và đi đến kết luận võ đoán rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với
chủ nghĩa Mác-Lênin”(?). Đây thực chất là một quan điểm sai trái, xuyên
tạc về mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu cơ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và
chủ nghĩa Mác-Lênin. Quan điểm này tưởng như là sự đề cao tư tưởng Hồ
Chí Minh, tưởng như là sự khẳng định những công lao, cống hiến của Hồ
Chí Minh với đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng thực chất là nhằm tách
rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin; âm mưu phủ
định cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa
Mác-Lênin; phủ định thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là bước đi
nhằm tiến tới phủ định bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trên thực
tế, các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá
cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, trong đó nổi lên
hiện nay là sự chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Rõ ràng, tư
tưởng, văn hóa là mặt trận hết sức gay gắt, quyết liệt của cuộc đấu
tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, làm thất bại các âm mưu phá hoại của
các thế lực thù địch, phản động. Thực tế cho thấy đang xuất hiện nhiều
hơn những mưu toan kích động, xuyên tạc nhằm “hạ bệ thần tượng”, làm
nghi ngờ, gây hoang mang, dao động, thậm chí gây chia rẽ, hỗn loạn nhận
thức về nền tảng tư tưởng của Đảng trong hàng ngũ những người cộng sản,
từ đó dẫn tới mất phương hướng, mâu thuẫn, rối loạn trong tổ chức và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, đưa đến những sai lầm, làm mất uy tín, ảnh
hưởng của Đảng trong quần chúng nhân dân và do đó đánh mất vai trò lãnh
đạo đối với hệ thống chính trị. Những mưu toan này có lúc công khai,
trắng trợn, có lúc tinh vi, xảo quyệt. Việc tuyên truyền, xuyên tạc về
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tách rời chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí cho rằng “Tư tưởng Hồ Chí
Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin” là một âm mưu rất tinh vi, xảo
quyệt, nằm trong những mưu toan đó của các thế lực thù địch, phản động
và thực chất không có gì mới. Nhưng vào những dịp kỷ niệm những ngày lễ
lớn của dân tộc, đất nước, kỷ niệm thành lập Đảng, hoặc những sự kiện
chính trị đặc biệt, thì những quan điểm này lại xuất hiện theo kiểu “bổn
cũ soạn lại”. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhận diện
và đấu tranh phản bác, làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, trong đó có âm mưu tách
rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin, là công việc
mang ý nghĩa hết sức quan trọng và thường xuyên hiện nay.
Trước
hết, cần phải nhận rõ mưu toan cắt xén và đánh tráo khái niệm của các ý
kiến xuyên tạc, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Những
ý kiến xuyên tạc, âm mưu tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với
chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, Hồ Chí Minh là một người yêu nước, là một
người theo chủ nghĩa dân tộc, chỉ mong muốn làm thế nào để giải phóng
đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Trong khi đó, chủ
nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về đấu tranh giai cấp, là hệ tư tưởng chỉ
của riêng giai cấp công nhân, nên đối lập với cả chủ nghĩa yêu nước, chủ
nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Những ý kiến kiểu này đã cố ý
không thấy một thực tế là Hồ Chí Minh không chỉ muốn giải phóng đất
nước, giành lại độc lập cho dân tộc, mà quan trọng hơn nữa là phải làm
thế nào để toàn thể người dân được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ấm no
thực sự sau khi giành được độc lập, như Người đã từng tâm sự: “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”(3). Bởi trong quan niệm của Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(4).
Người chỉ rõ: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá
trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(5).
Đó
chính là lý do để lý giải vì sao mặc dù đánh giá cao cách mạng Mỹ, cách
mạng Pháp và đúc kết được những kinh nghiệm quý báu từ hai cuộc cách
mạng tiêu biểu này trong thời cận đại, nhưng Hồ Chí Minh đã thẳng thắn
nêu lên nhận xét về những cuộc cách mạng đó xét về bản chất đều là những
cuộc cách mạng “không đến nơi”, chỉ mang lại quyền lợi cho một thiểu số
người trong xã hội, trong khi đại đa số những người dân lao động vẫn
phải chịu cảnh bị áp bức, bóc lột, bất công và vẫn phải mưu tính làm
cách mạng lần nữa. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã quyết định không lựa chọn con
đường cứu nước và phát triển của dân tộc Việt Nam theo hình mẫu của các
cuộc cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp. Thực tế, như chúng ta đều biết, qua
quá trình nghiên cứu, khảo sát nhiều trào lưu tư tưởng chính trị trong
hành trình bôn ba nước ngoài, Người đã lựa chọn con đường cách mạng do
chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra: con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường
thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện ba sự
nghiệp giải phóng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người trong một chỉnh thể thống nhất để thực sự mang lại độc
lập, tự do, hạnh phúc triệt để cho tất cả người dân, không phân biệt
giàu nghèo, vùng miền, không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu
số, có tôn giáo hay không theo tôn giáo, nam hay nữ, .... Nói cách khác,
con đường cách mạng vô sản theo ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đáp
ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc một cách triệt để mà Hồ Chí Minh
luôn phấn đấu thực hiện.
Các
ý kiến cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin
cũng đã đánh tráo khái niệm khi luận giải Hồ Chí Minh đặt vấn đề dân tộc
lên trên hết và trước hết, trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ coi trọng
vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, coi trọng bảo vệ lợi ích của giai
cấp công nhân. Như vậy, rõ ràng là tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ
nghĩa Mác-Lênin (?).
Đúng
là trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khi giải quyết mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề
dân tộc lên trên hết, trước hết và xác định vấn đề giai cấp phải xếp sau
vấn đề dân tộc, phục vụ cho vấn đề dân tộc. Nhưng đây là sự vận dụng và
phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là sự quán triệt,
vận dụng đúng đắn linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin - phương pháp luận
duy vật biện chứng, vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa phong
kiến như Việt Nam; là sự vận dụng quy luật chung vào hoàn cảnh cụ thể,
đặc thù, hết sức sinh động, muôn màu, muôn vẻ của những hiện tượng, quá
trình lịch sử riêng biệt. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó là cần
thiết, đã thể hiện theo đúng lời dặn của V.I.Lênin: “Chúng ta không hề
coi lý luận Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm;
trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học
mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”(6). Vì vậy, không thể đánh đồng sự vận dụng và phát triển sáng tạo với sự mâu thuẫn, đối lập.
Thứ hai, Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò, tầm vóc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Khi ra đi
tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh không chỉ trăn trở tìm kiếm lời giải
bài toán làm thế nào, bằng cách nào để giành lại nền độc lập của nước
nhà, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị ngoại bang, mà còn
mong muốn tìm ra một hệ tư tưởng làm nền tảng soi sáng cho con đường đi
của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng xã hội mới, một triết
lý phát triển của dân tộc. Qua những trải nghiệm phong phú trong thực
tiễn, khảo sát, phân tích sâu sắc về những trào lưu tư tưởng, những con
đường cứu nước của các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh nhận thức rõ
rằng đường lối cứu nước, giải phóng và phát triển dân tộc phải được xây
dựng trên một nền tảng tư tưởng nhất định thì mới đảm bảo tính nhất quán
và sự thông suốt trong cả tư tưởng và hành động của lực lượng cách
mạng, trước hết là lực lượng lãnh đạo, từ đó đảm bảo cho sự thành công
của sự nghiệp cách mạng. Lực lượng lãnh đạo phải có chủ nghĩa làm cốt và ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy,
tức là phải thống nhất quán triệt, vận dụng chủ nghĩa ấy trong quá
trình vận động và tổ chức sự nghiệp cách mạng thì sự nghiệp đó mới thành
công được.
Hồ Chí
Minh còn chỉ ra rằng, lực lượng lãnh đạo mà không có chủ nghĩa làm nòng
cốt thì cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam
(la bàn)(7). Người không có trí khôn thì đương nhiên sẽ
không thể có chủ trương, đường lối đúng đắn được; và tàu không có la bàn
dẫn đường thì cũng sẽ không thể xác định được hướng đi đúng giữa đại
dương mênh mông, bao la.
Nhưng vấn
đề còn quan trọng hơn nữa trong thời đại của Hồ Chí Minh là Người xác
định, phải lựa chọn đi theo chủ nghĩa nào, học thuyết nào. Bởi lẽ, như
Người từng thấy rõ: “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều”. Đó là
hệ tư tưởng tư sản, hay hệ tư tưởng vô sản, hoặc nhân danh là hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân, nhưng thực chất đã bị tha hóa, biến tướng,
như chủ nghĩa công liên, nghiệp đoàn vàng, chủ nghĩa xét lại ....? Đi
theo chủ nghĩa nào, tư tưởng nào là vấn đề hết sức quan trọng đặt ra,
buộc phải có sự lựa chọn, cân nhắc cẩn thận, chính xác. Trong bối cảnh
đầy những phức tạp, tiềm ẩn nhiều “ngõ cụt” đó, Hồ Chí Minh đã biết phát
hiện ra và tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng tiên tiến nhất, cách mạng nhất và nhân văn nhất của thời đại, trong khi những người Việt Nam
khác, dù cũng giàu lòng yêu nước và từng sống nhiều năm ở nước ngoài
như nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, ... nhưng vẫn
không nhìn ra được. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin”(8). Đó là sự tổng kết, đúc rút của Hồ Chí
Minh từ thực tiễn nghiên cứu, khảo sát phong phú các trào lưu tư tưởng,
các phong trào đấu tranh yêu nước, các cuộc cách mạng của các dân tộc
khác nhau trên thế giới. Có thể nói chặng đường mà Hồ Chí Minh đã đi để
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là “chặng đường chiến thắng biết bao khó
khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai lầm dẫn tới ngõ
cụt”(9).
Sau này,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng
định vai trò hết sức quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Với nhiều cách thức diễn đạt
khác nhau, Người đã chỉ ra vai trò nền tảng tư tưởng, dẫn đường của chủ
nghĩa Mác-Lênin: “chủ nghĩa Mác-Lênin làm gốc”(10); “Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành động”(11); “Chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất”(12);
chủ nghĩa Mác-Lênin “không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những
là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi
tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(13)...
Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, việc hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là yêu cầu,
điều kiện không thể thiếu để Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hoàn thành
vai trò, nhiệm vụ được giao. Với tổ chức Đảng, Người chỉ ra rằng: “Đảng
ta là Đảng lãnh đạo. Muốn lãnh đạo được phải hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin”(14).
Với mỗi cán bộ, đảng viên, Người nêu rõ: “Có học tập lý luận Mác-Lênin
mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự
hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó
cho mình”(15). Người nhắc nhở: “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin tức
là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều
phải làm tròn nhiệm vụ”(16).
Đặc biệt,
với trái tim nhân văn sâu sắc, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan niệm hết sức
độc đáo về vai trò quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là giúp nhân
lên những giá trị tích cực trong mỗi người, cộng đồng và xã hội: “Hiểu
chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ
nghĩa Mác-Lênin được”(17).
Đánh giá
rất cao vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng
nhắc nhở các cán bộ, đảng viên phải biết vận dụng đúng đắn và phát triển
phù hợp với điều kiện cụ thể, tránh căn bệnh máy móc, giáo điều. Người
chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực
tiễn”(18).
Thứ ba, Hồ Chí Minh luôn nhất quán khẳng định bản thân là một người mácxít-lêninnít
Tháng 7-1920, khi đọc Luận cương
của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã hết sức xúc động. Sau này, Người có tâm
sự về thời điểm đặc biệt đó: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc
lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". Từ đó tôi
hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(19).
Trên nền
tảng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã
từ một người yêu nước nhiệt thành trở thành người cộng sản chân chính,
đã tìm ra con đường đi đúng đắn cho bản thân và con đường giải phóng,
phát triển chính xác, phù hợp với lịch sử và thời đại của dân tộc. Đó là
con đường dựa chủ yếu vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và sức mạnh
đại đoàn kết của toàn thể quốc dân đồng bào, đồng thời tích cực tranh
thủ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh đuổi giặc ngoại xâm, đi tới xây
dựng một xã hội mới mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no thực sự
cho tất cả mọi người dân, một xã hội không còn áp bức, bất công, thực
hiện giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó chính là con
đường phát triển khoa học, cách mạng triệt để và nhân văn sâu sắc. Thực
tế lịch sử dân tộc cho thấy con đường này đã được dân tộc lựa chọn, ủng
hộ và tin theo. Đúng như Đảng đã khẳng định: “Với tấm lòng yêu nước nồng
nàn, Hồ Chủ tịch đã sớm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác-Lênin ánh sáng soi đường cứu dân, cứu nước”(20).
Cũng
chính là trên nền tảng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, đặc biệt là phương pháp luận duy vật biện chứng, với trí tuệ
lỗi lạc và tư duy lý luận sắc sảo, thấm đẫm thực tiễn phong phú, Hồ Chí
Minh đã xây dựng nên hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó hạt nhân cốt lõi, sợi chỉ
đỏ xuyên suốt là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc không chỉ vai trò là người tìm
đường, mà còn cả vai trò người mở đường và dẫn đường, trở thành vị lãnh
tụ vĩ đại và kính yêu của dân tộc Việt Nam, vị Anh hùng giải phóng dân
tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất. Đồng thời, với những hoạt động, cống hiến
hết sức phong phú trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cũng trở thành người chiến sĩ quốc tế lỗi lạc
trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân tiến bộ trên thế giới, đã “góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. .... những tư tưởng của Người là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản
sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc”(21).
Tháng
7-1946, ngay tại thủ đô Pari (Pháp), trên cương vị nguyên thủ của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang thăm nước Cộng hòa Pháp, Hồ Chí Minh đã
thẳng thắn trả lời các nhà báo quốc tế: “Tất cả mọi người đều có quyền
nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các
Mác”(22).
Chỉ một
thời gian ngắn trước khi qua đời, trong bài trả lời phỏng vấn của nhà
báo Pháp Sáclơ Phuốcniô (ngày 15-7-1969), Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng
định: “Lúc đầu, chính là do chủ nghĩa yêu nước mà tôi tin theo Lênin.
Rồi, từng bước một, tôi đi đến kết luận là chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp
công nhân toàn thế giới”(23). Nêu lên những thắng lợi của
nhân dân Việt Nam từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng
cần phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100
Ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là
nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác-Lênin”(24).
Trọn cuộc
đời, Hồ Chí Minh đã phấn đấu theo lý tưởng cách mạng, khoa học, nhân
văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể
của Việt Nam, đã mang lại những thành công cho cách mạng Việt Nam và đưa
dân tộc Việt Nam đến những thành tựu như hiện nay. Chính trên tinh thần
đó, từ những bài học của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là qua 35 năm đổi
mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã nhấn mạnh một trong những tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là “phải kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(25).
Đây là một vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế
độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả
nghiêng, dao động.
--------------------------------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H, 1991, tr.21.
(2) GS.TS. Vũ Văn Hiền (chủ biên): Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2020, t.1, tr.18.
(3) (4) (5) (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 4, tr.187, 64, 175, 315.
(6) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t. 4, tr.232.
(7) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr.289, 289.
(9)
Ho Chi Minh - Notrue camrade, Introduction historique de Charles
Fourniau, editon sociales, Paris, 1970, dẫn theo Phan Ngọc Liên: Hồ Chí
Minh với tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2008,
tr. 178.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr. 359.
(11) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr.1 20, 414.
(13) (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 563, 562.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 76.
(15) (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 611, 611.
(16) (17) (21) (24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 668, 668, 588, 590.
(22) Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9-9-1969.
(23) Nghị quyết số 24C/18.6.5 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1987), dẫn theo GS,TS Mạch Quang Thắng - PGS,TS Bùi Đình Phong - TS Chu Đức Tính (Đồng chủ biên) (2013): UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.71-72.
(25) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.33.
Theo qdnd.vn