Năng
lực cán bộ không phải là một thuật ngữ xa lạ trong công tác
cán bộ ở nước ta hiện nay. Trong các quan điểm chỉ đạo, phương
hướng, nhiệm vụ được nhấn mạnh xuyên suốt từ Chiến lược cán
bộ (năm 1997), Nghị quyết 26-NQ/TW (năm 2018) tại Hội nghị Trung
ương 7- khóa XII, cho đến Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XIII (năm 2021), Đảng đã nhiều lần khẳng định: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ…”(1).
Đối với đội ngũ cán bộ tuyên giáo, bên cạnh năng lực hoạt
động thực tiễn, năng lực tác chiến, thì năng lực tham mưu là
một trong những nhân tố giữ vai trò quan trọng trong đánh giá
năng lực cán bộ.
Hoạt động tham mưu trong công
tác tuyên giáo là một hoạt động đặc thù mà trong đó chất
lượng, hiệu quả của sản phẩm tham mưu ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và tác
động nhiều chiều đến đời sống chính trị, xã hội của địa
phương. Do đó, yêu cầu về năng lực đối với cán bộ tuyên giáo
các cấp luôn gắn với những tiêu chuẩn cao về năng lực. Người
cán bộ tuyên giáo cần có những thuộc tính cá nhân về khả
năng vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ và các phẩm chất
cần thiết để có thể nhận diện, phân tích, đề xuất các chủ
trương, phương án tối ưu nhất, giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo
trên tất cả các mặt hoạt động của công tác tuyên giáo. Những
thuộc tính này quy định “khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu
quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề cần tham mưu trong
những tình huống khác nhau của công tác tuyên giáo, trên cơ sở hiểu
biết, kỹ năng, kỹ xảo cũng như sự sẵn sàng hành động”(2). Tuy
nhiên, chất lượng, hiệu quả của công tác tham mưu lại không chỉ
phụ thuộc vào năng lực cá nhân của mỗi cán bộ tuyên giáo mà
còn chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan,
khiến cho mỗi người trong những điều kiện khác nhau có khả
năng nhận diện, nghiên cứu, dự báo tình hình khác nhau, cũng
như có thể đề xuất được những giải pháp, cách thức thực hiện
nhiệm vụ khác nhau. Do đó, các cấp ủy đảng và lãnh đạo ban
tuyên giáo các cấp cần nhận diện các yếu tố có khả năng kìm
hãm hoặc thúc đẩy sự hình thành và phát triển năng lực tham
mưu trong đội ngũ cán bộ. Từ đó có giải pháp phù hợp để cán
bộ tuyên giáo ngày càng có điều kiện sáng tạo, chủ động
trong nghiên cứu, đề xuất; có động lực không ngừng học hỏi,
rèn luyện nâng cao trình độ và sẵn sàng cống hiến, phụng sự
cấp ủy, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng,
văn hóa, khoa giáo.
Có thể nêu ra một số giải pháp
góp phần phát huy vai trò của các yếu tố tác động đến năng
lực tham mưu của cán bộ tuyên giáo hiện nay:
Một là phát huy tố chất cá nhân của cán bộ tuyên giáo trong nâng cao năng lực tham mưu.
Tố chất cá nhân với các
biểu hiện như có trí nhớ tốt, có khả năng quan sát nhạy bén,
có óc phân tích và tư duy khái quát cao, khả năng sử dụng ngôn
ngữ linh hoạt, tư duy logic tốt, có óc sáng tạo… là tiền đề
để hình thành nên năng khiếu và khuynh hướng năng lực phù hợp
với vị trí việc làm của một cán bộ tham mưu. Có tố chất
nhưng không được đặt đúng môi trường, đúng lĩnh vực; nếu không
học tập, trau dồi, rèn luyện thì chỉ dừng lại ở mức độ có
năng khiếu hoặc có khả năng chứ chưa thể trở thành năng lực để
đáp ứng tốt và mang lại kết quả vượt trội trong mọi hoàn
cảnh.
Tương tự như lời khẳng định
của C.Mác: “…tư tưởng căn bản không thực hiện được cái gì hết.
Muốn thực hiện được tư tưởng cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn” và “đời sống thực tiễn là nơi sản sinh
ra mọi năng lực, tài năng”(3), tố chất sẽ chỉ dừng
lại là những thuộc tính bên trong mà không bao giờ được thể
hiện ra ngoài nếu không có sự am hiểu hoạt động và kỹ năng
thực hiện hành vi bằng một thái độ tích cực. Tố chất chỉ là
điều kiện thuận lợi để năng lực phát triển, chứ chưa thể giữ
vai trò là một yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc năng
lực.
Trên cơ sở nhất quán nhận
thức về mối quan hệ giữa năng lực tham mưu và tố chất cá nhân
của cán bộ tuyên giáo, các cấp ủy Đảng cần sớm xây dựng và
hoàn thiện các văn bản quy định mô hình cấu trúc năng lực tham
mưu, khung năng lực tham mưu, mô tả vị trí việc làm, mô hình nhân
cách cán bộ tuyên giáo từng cấp. Các văn bản này cần được
thể chế hóa và sử dụng chính thức trong tuyển dụng, phân công
công tác, tạo nguồn, đề bạt, đào tạo – bồi dưỡng, đánh giá
cán bộ… Trong đó, mô tả về các phẩm chất và tố chất cần có
của cán bộ tuyên giáo sẽ là một tiêu chí.
Hai là, đổi mới phương
thức sinh hoạt chính trị để gia tăng hứng thú hoạt động chính
trị xã hội cho cán bộ tuyên giáo
Hứng thú nói chung và hứng
thú chính trị nói riêng cũng là một đặc điểm tâm lý cá nhân
được quy định sẵn trong mỗi cá nhân. Những đặc tính này có
ảnh hưởng đến khuynh hướng và thái độ của mỗi người đối với
các lĩnh vực của đời sống. Trong đó hứng thú chính trị là
một dạng thái độ đặc biệt của cá nhân với các vấn đề chính
trị xã hội, được biểu hiện ở sự
quan tâm theo dõi, thường xuyên tìm hiểu, thường xuyên đề cập
hoặc suy nghĩ đến tình hình chính trị trong nước và quốc tế;
tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội, các phong
trào chính trị quần chúng… Những biểu hiện kể trên của hứng
thú chính trị vừa là cơ sở, vừa là yêu cầu cần thiết để cán
bộ tuyên giáo hình thành nên tầm nhìn chính trị và năng lực
tư duy chính trị nhạy bén, góp phần trực tiếp đảm bảo tính
thời sự, cập nhật của thông tin trong tham mưu cho cấp ủy và
đảm bảo tính linh hoạt, nhanh nhạy trong xử lý các tình huống
thực tiễn đặt ra. Hứng thú chính trị và tính nhạy bén chính
trị cũng đồng thời tạo ra tình cảm tích cực, gắn bó với
nghề nghiệp, với nhiệm vụ tham mưu trong mỗi cá nhân, từ đó
người cán bộ tuyên giáo luôn có tâm thế sẵn sàng, không ngại
khó, ngại khổ để thực thi nhiệm vụ.
Để
hình thành và duy trì hứng thú chính trị, bên cạnh việc quán
triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của
Ban chấp hành Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị; quy định về những điều đảng viên không được
làm gắn với thực hiện hiệu quả Chỉ thị của Bộ chính trị về
tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, các cấp ủy Đảng và lãnh đạo các ban tuyên giáo cần
quan tâm xây dựng quy chế về chế độ thông tin, chế độ sinh hoạt
chính trị xã hội trong nội bộ.
Mỗi ban
tuyên giáo, tùy điều kiện và đặc điểm của địa phương cần đảm
bảo chế độ cung cấp thông tin, chế độ khai thác và cập nhật
thông tin định kỳ cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ tham mưu chủ chốt: tài liệu, sách báo định
kỳ; chế độ tập huấn, nghe thời sự hàng tuần, hàng tháng,
hàng quý; thẻ ưu tiên trong việc khai thác thông tin tại các sự
kiện chính trị xã hội từng cấp, từng địa phương. Các cơ quan
cũng cần đảm bảo hệ thống trang thiết bị cho đội ngũ cán bộ
tham mưu: thiết bị thu phát thông tin; thiết bị ghi hình; tài
khoản chuyên dụng sử dụng các ứng dụng xử lý hình ảnh, xử
lý âm thanh, xử lý số liệu; chất lượng đường truyền internet…
Cần đổi
mới hình thức các đợt sinh hoạt chính trị xã hội tại cơ quan
và tại địa phương để tăng cường hứng thú chính trị, hình
thành niềm đam mê, yêu nghề, tinh thần cống hiến. Bên cạnh việc
tiếp tục duy trì và phát huy ưu thế của các hoạt động học
tập nghị quyết; các sinh hoạt chuyên đề dưới dạng thuyết trình
tại hội trường; thăm quan, trải nghiệm thực tiễn; các cuộc thi
viết, vẽ, văn hóa văn nghệ… cần lồng ghép và tăng cường các
hoạt động thực tế chính trị xã hội mới mẻ như: các dự án
truyền thông chính trị trên các trang mạng xã hội; gắn các
nhiệm vụ chính trị xã hội địa phương với các sinh hoạt văn
hóa du lịch; tổ chức các đợt trải nghiệm thực tế định kỳ để
cán bộ tuyên giáo tham gia nhập vai vào các lực lượng khác
nhau nhằm gia tăng vốn sống, kỹ năng xử lý tình huống… Sự đồng
thuận, ủng hộ, tạo điều kiện của các cấp ủy Đảng, lãnh đạo
ban tuyên giáo các cấp, các địa phương cũng như sự tin tưởng,
khuyến khích tinh thần sáng tạo của cấp dưới là điều kiện
tiên quyết và có ý nghĩa quyết định để không ngừng đổi mới
các đợt sinh hoạt chính trị xã hội, phong trào quần chúng kể
trên.
Ba là tạo điều kiện để cán bộ tuyên giáo tích lũy kinh nghiệm thực tiễn.
Việc
tạo điều kiện để cán bộ tuyên giáo được trải nghiệm, thực
hành, rèn luyện trong nhiều lĩnh vực, nhiều vị trí và tin
tưởng giao nhiệm vụ để tích lũy kinh nghiệm là điều vô cùng
cần thiết để cùng lúc nâng cao cả kiến thức, kỹ năng và thái
độ, góp phần trực tiếp nâng cao năng lực tham mưu. Những quy
định về luân chuyển cán bộ, phân công nghiên cứu thực tế ngắn
hạn, cử cán bộ tham gia các khóa bồi dưỡng… chính là những
biện pháp hiệu quả để gia tăng vốn kinh nghiệm cho cán bộ tuyên
giáo. Tuy nhiên, các cơ quan, đơn vị cần xây dựng đề án nhân sự
theo từng giai đoạn, từng nhiệm kỳ và từng năm , trong đó có
các tiêu chuẩn cụ thể về số lượng cán bộ nguồn, cán bộ quy
hoạch; chất lượng cán bộ ở từng bộ phận; đánh giá các mặt
năng lực còn yếu ở từng lĩnh vực công tác để đề xuất phương
án điều động, luân chuyển, nghiên cứu thực tế, đề bạt…
Cần
xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cụ thể của từng cơ quan, đơn vị
để việc lựa chọn cán bộ được điều động, luân chuyển, nghiên
cứu thực tế, đề bạt… được thực hiện công bằng, minh bạch trên
cơ sở có sự phân loại về độ tuổi, năng lực chuyên môn, sự phù
hợp với từng vị trí công tác, quá trình phấn đấu… mới góp
phần củng cố, nâng cao năng lực tham mưu và nâng cao chất lượng
đội ngũ.
Bốn là xây dựng và duy trì môi trường tham mưu trong sạch, dân chủ và chuyên nghiệp.
Tính chất đặc biệt của hoạt
động tham mưu cùng với những yêu cầu cao đối với cán bộ tuyên
giáo cho thấy đội ngũ cán bộ tham mưu cần được đãi ngộ tốt,
ưu tiên cung cấp những điều kiện công tác thuận lợi, có môi
trường trao đổi thông tin tốt, môi trường dân chủ để phát huy
khả năng sáng tạo và yên tâm công tác.
Cần quan tâm xây dựng toàn
diện cả ba thành tố của môi trường tham mưu, bao gồm: hệ thống
khung pháp lý có tính xương sống quy định mọi mặt về hoạt
động tham mưu; hệ thống cơ sở vật chất và tinh thần phục vụ
hoạt động tham mưu; mối quan hệ công tác, sinh hoạt của đội
ngũ cán bộ tuyên giáo. Trong đó, mối quan hệ công tác, sinh
hoạt giữa cấp ủy, lãnh đạo ban với cán bộ tham mưu; giữa đồng
nghiệp trong đơn vị có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
từng cá nhân trong việc phát huy năng lực làm việc; có tính
chất thúc đẩy hoặc cản trở, thậm chí có thể triệt tiêu nhiệt
huyết, khả năng sáng tạo, cơ hội trải nghiệm của cán bộ tuyên
giáo và ngược lại.
Cần xây dựng quy chế riêng về
hoạt động tham mưu để tạo môi trường tham mưu trong sạch, dân
chủ, được tôn trọng, được sáng tạo; được ghi nhận, đánh giá
công bằng, công khai, minh bạch bên cạnh các quy chế làm việc đã
có của từng ban tuyên giáo. Trong đó cần xác định rõ các nội
dung quy định về tác phong làm việc của lãnh đạo ban hoặc cấp
ủy; chế độ sử dụng sản phẩm tham mưu; chế độ khen thưởng, kỷ
luật liên quan đến hoạt động tham mưu… để tránh mọi biểu hiện
độc đoán, bảo thủ, ngại thay đổi, thiếu tôn trọng cấp dưới…
của người lãnh đạo hoặc sự nghi kỵ, ích kỷ, thực dụng… của
đồng nghiệp. Trên cơ sở khung năng lực tham mưu, đề án về vị
trí việc làm của đội ngũ cán bộ tham mưu lĩnh vực tuyên giáo
và quy chế hoạt động tham mưu, cần mạnh dạn tiến tới việc đề
xuất xây dựng đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp, có vị trí riêng
trong danh mục nghề nghiệp ở nước ta hiện nay.
Một số đề xuất kể trên nhằm
phát huy tố chất, hứng thú chính trị, kinh nghiệm và môi
trường làm việc thực chất chỉ đóng vai trò bổ trợ, góp phần
vào hệ thống các giải pháp nâng cao năng lực tham mưu cho cán
bộ tuyên giáo các cấp nhưng không thể thay thể được vai trò của
chính chủ thể hoạt động tham mưu.
Cần
nhận thức rõ ràng rằng yếu tố đóng vai trò quyết định đến
việc hình thành và nâng cao năng lực tham mưu của cán bộ tuyên
giáo chính là ý thức tự học tập và rèn luyện của bản thân
người cán bộ. Chỉ khi thực sự cầu thị; có ý chí phấn đấu;
tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức; tích cực tham
gia các hoạt động thực tiễn, cán bộ tuyên giáo mới có thể
biến tố chất, hứng thú thành kinh nghiệm của cá nhân và nỗ
lực để từng bước nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ phù hợp
với nhiệm vụ tham mưu được giao.
Mỗi cán bộ tuyên giáo cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình để thực sự xứng đáng là
những người công tác trong một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong toàn
bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, lĩnh vực trọng yếu trong xây dựng, bồi
đắp nền tảng chính trị của đất nước; đi trước, mở đường trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
-----------------------------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr.34,35.
(2) Nguyễn Văn Tuấn (2010): Tài liệu học tập về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp (chuyên đề bồi dưỡng sư phạm), Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.9
(5) C.Mác và Ph. Ăngghen(2000): Toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.181.
Theo tuyengiao.vn