VAI TRÒ TO LỚN CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Nghị quyết số 27 - NQ/TW "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã xác định: Trí
thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh
vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền
bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có
giá trị đối với xã hội.
Trí
thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ
công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình
thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ
nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn
dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trí
thức luôn có vai trò quan trọng trong mọi thời kỳ của tiến trình phát
triển xã hội. Họ mang trong mình tri thức nhân loại, tạo sự tiếp nối, và
ngày càng làm giàu hơn tri thức nhân loại về thế giới và phương thức
cải tạo thế giới.
Vai trò cơ bản của trí thức thể hiện rõ qua những nét cơ bản sau:
Thứ
nhất, trí thức góp phần tạo lập cơ sở khoa học cho xây dựng, hoàn thiện
đường lối, cũng như đề xuất phương thức hiệu quả để thực hiện tốt đường
lối phát triển đất nước.
Bằng
các nghiên cứu của mình, đội ngũ trí thức có thể xác định, đề xuất
phương cách phát triển từ chính những tri thức nhân loại được tích hợp,
truyền nối lại, đồng thời với hoạt động nghiên cứu tổng kết chỉ ra cơ sở
thức tiễn, những ưu thế, lợi thế mà quốc gia, dân tộc hiện có, cũng như
sẽ có, hình thành trong tương lai trên cơ sở của sự phát triển khoa học
công nghệ và tận dụng cơ hội, nguồn lực bên ngoài. Nói cách khác bằng
các hoạt động lý luận và tổng kết thực tiễn, đội ngũ trí thức góp phần
xây dựng cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối đúng đắn có tính khả
thi.
Với
tri thức và khả năng lao động trí óc sáng tạo của mình, đội ngũ trí
thức sẽ nhận ra quy luật của sự vận động, hình thành các lý thuyết, lý
luận về sự phát triển, trở lại dẫn đường cho hoạt động thực tiễn.
Thứ
hai, trí thức là bộ phận nòng cốt trong nguồn nhân lực chất lượng cao,
có vai trò quan trọng trong sáng tạo công nghệ và ứng dụng công nghệ
trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia
Trong
bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 và phát triển nền kinh tế số, nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng then chốt cho
mọi sự phát triển nói chung, quyết định tốc độ phát triển kinh tế, xã
hội, định hướng phát triển của một quốc gia.
Nguồn
nhân lực chất lượng cao, mà nòng cốt là đội ngũ trí thức đóng vai trò
tiên phong trong ứng dụng các công nghệ tiên tiến, cả công nghệ kỹ thuật
và công nghệ quản lý. Điều này sẽ đưa lại năng suất lao động cao. Năng
suất lao động chính là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh
và sự tồn tại lâu dài của một doanh nghiệp, là cơ sở để nâng cao thu
nhập, tạo môi trường và điều kiện làm việc tốt cho người lao động. Ở cấp
độ quốc gia, trong điều kiện hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt
hiện nay, năng suất lao động xã hội là yếu tố có ảnh hưởng quyết định
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của cả nền kinh tế.
Đội
ngũ trí thức chính là lực lượng sản xuất trực tiếp trên các lĩnh vực
nghiên cứu, ứng dụng, triển khai công nghệ tiên tiến, các dịch vụ khoa
học, công nghệ khác. Đồng thời, họ qua nghiên cứu, lao động sáng tạo đã
tìm tòi, phát minh ra nhiều công trình khoa học góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân và phúc lợi xã
hội nói chung.
Thực
tiễn cho thấy, quốc gia nào có đội ngũ trí thức đông và mạnh, thường là
những quốc gia có sự phát triển mạnh mẽ. Và cũng vì vậy, các quốc gia
đều có chính sách phát triển đội ngũ trí thức, đồng thời có những chính
sách ưu đãi để thu hút đội ngũ trí thức nói riêng, nguồn nhân lực chất
lượng cao nói chung đến làm việc.
|
Thứ
ba, trí thức đi liên với hoạt động nghiên cứu sáng tạo của mình là hoạt
động truyền thụ tri thức, đào tạo đội ngũ trí thức mới cho xã hội
Trí
thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng
nòng cốt sáng tạo, truyền bá tri thức. Chính họ thông qua các hoạt động
nghiên cứu làm giàu thêm tri thức nhân loại và cũng chính với năng lực
và vốn tri thức của mình, mà đội ngũ trí thức gánh vác vai trò, trách
nhiệm trong truyền thụ tri thức cho xã hội và đào tạo đội ngũ tri thức
mới.
Việc
truyền thụ kiến thức trước hết thông qua công bố các công trình, kết
quả nghiên cứu về các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời thông qua
các hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ cho
quá trình phát triển ở mỗi quốc gia. Trong quá trình đào tạo, họ có thể
hợp tác, liên kết với đội ngũ trí thức ở một số quốc gia có nền giáo dục
phát triển trên thế giới nhằm cập nhật thêm các tri thức mới.
Đương
nhiên việc đào tạo những trí thức mới nói riêng hay nguồn nhân lực chất
lượng cao nói chung, bản thân trí thức không thể độc lập, tự thân có
thể đào tạo được, mà phải phối hợp và cùng với các nhóm, tầng lớp, cộng
đồng xã hội khác. Song lực lượng quan trọng nhất, tinh nhuệ và chủ
lực, có vai trò to lớn nhất mà không ai có thể thay thế là đội ngũ trí
thức, họ có thể trang bị tri thức, nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực
chất lượng cao, cả về phương diện chuyên môn, tính chuyên nghiệp, lẫn
trình độ hiểu biết và năng lực tư duy, vốn văn hóa.
Thứ tư, đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng với mọi quốc gia và chính họ là kho lưu giữ và tiếp nối, phát triển tri thức
Thực tiễn phát triển của các quốc gia đều cho thấy vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, là
nhân tố góp phần quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, đội ngũ trí thức là
hạt nhân của đổi mới sáng tạo, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng,
tiếp nhận và chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, tạo động lực quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Trí
thức, bằng lao động của mình, là lực lượng xã hội có khả năng thực hiện
tốt và nhanh nhất trong tiếp nhận những giá trị khoa học công nghệ và
văn hóa tích cực, tiến bộ, phù hợp với truyền thống của dân tộc.
Chính đội ngũ trí thức mang trong mình tri thức, là kho lưu giữ tri thức. Những trí thức, trên nền tảng tri thức về thế giới tự nhiên và về chính mình, qua các hoạt động lao động sáng tạo phát triển, làm giàu thêm tri thức của mình cũng như tri thức của xã hội.
Thứ
năm, đội ngũ tri thức có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nước
đi sau trong tiếp thu, vận dụng thành tựu khoa học công nghệ thế giới,
góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, đuổi kịp các quốc gia tiên tiến
Kinh
nghiệm của các nền kinh tế Đông Á và các nền kinh tế công nghiệp mới
(NIEs) ở châu Á cho thấy sự phát triển "thần kỳ" có được là nhờ phát
triển nguồn lao động chất lượng cao mà nòng cốt là đội ngũ trí thức tinh hoa.
Đội ngũ
trí thức là lực lượng cơ bản tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ thế
giới, chủ động tiếp cận, tiếp nhận và chuyển giao các kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ. Thực tế cho thấy, quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế mạnh mẽ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ đang tạo cơ hội
để Việt Nam bắt nhịp với trình độ phát triển khoa học - công nghệ thế
giới. Cơ hội đó chỉ thành hiện thực khi đội ngũ trí thức thể hiện được
vai trò chủ động, tích cực trong tiếp thu, kế thừa thành tựu của thế
giới, làm chủ công nghệ mới, truyền bá, phổ biến và nhân rộng ở Việt
Nam. Việc kế thừa các thành tựu khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo
thế giới phải là sự kế thừa có chọn lọc. Quá trình này thực hiện trên
cơ sở phát huy trí tuệ và trách nhiệm của đội ngũ trí thức Việt Nam.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI PHÁT HUY VAI TRÒ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Môi trường làm việc, cống hiến của đội ngũ trí thức
Môi
trường và điều kiện thuận lợi sẽ là bệ đỡ, chất xúc tác cho đội ngũ trí
thức phát huy cao nhất năng lực sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động.
Trái lại, môi trường kém, không thuận lợi sẽ gây cản trở, kìm hãm năng
lực sáng tạo. Môi trường ở đây không đơn thuần là cơ sở vật chất như:
giảng đường, thư viện, các phương tiện nghiên cứu, giảng dạy… vốn trực
tiếp gắn liền với công việc thường ngày của giới trí thức, mà đó còn là
điều kiện cuộc sống, cách nhìn nhận, đánh giá của xã hội, không khí dân
chủ, tự do sáng tạo, công bằng trong học thuật, nghiên cứu, sáng tạo,
trong triển khai ứng dụng khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội; là sự
cởi mở, sẵn sàng trao đổi, lắng nghe của các cấp lãnh đạo, nhất là người
đứng đầu với trí thức; là sự đoàn kết, sự hợp tác trong hoạt động của
trí thức.
Với môi trường cơ sở vật chất và kỹ thuật đầy đủ,
hiện đại, thích hợp với yêu cầu nghiên cứu, làm việc sáng tạo của đội
ngũ trí thức là điều kiện rất cần cho phát huy vai trò trí thức, nhất là
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay
Để
tạo ra môi trường cống hiến, hợp tác làm việc, ngoài các cơ sở nghiên
cứu, đào tạo, thì việc xây dựng, hình thành các tổ chức chính trị-xã hội
nhằm quy tụ đội ngũ trí thức dưới dạng các hội liên hiệp ở các cấp có ý
nghĩa rất quan trọng. Đây
chính là môi trường tạo sự đoàn kết và phát huy trí tuệ của đội ngũ trí
thức trong và ngoài nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội
viên, là nơi hội viên có thể bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, mong muốn công
hiến của mình, và cũng là nơi trí thức phát huy vai trò của mình với
tính chất là một đội ngũ.
Cùng
với môi trường cứng (cơ sở vật chất kỹ thuật và các hình thức tổ chức)
thì môi trường mềm ảnh hưởng rất lớn, đôi khi là quyết định với việc
phát huy hiệu quả làm việc của đội ngũ trí thức. Đó chính là cơ chế,
chính sách tạo lập môi trường dân chủ, tự do sáng tạo, công bằng và sự
phối hợp trong hoạt động của đội ngũ trí thức. Trong môi trường dân chủ,
người trí thức được tôn trọng trong quá trình lao động sáng tạo, được
đáp ứng nhu cầu tinh thần (sự
khẳng định các phẩm chất cá nhân, sự đam mê nghề nghiệp…) cũng như đáp
ứng nhu cầu vật chất ((thu nhập để nuôi sống bản thân, gia đình; mua sắm
tiện nghi phục vụ sinh hoạt, phục vụ công việc sáng tạo…) và đương
nhiên đáp ứng nhiệm vụ chính trị, thực hiện trách nhiệm của người trí
thức với cộng đồng bằng các sản phẩm khoa học có chất lượng.
Tác động của cơ chế kinh tế thị trường
Trong
nền kinh tế thị trường, giá trị của sức lao động được thị trường đánh
giá, chấp nhận trên cơ sở hao phí sức lao động trong quá trình sản xuất.
Đây cũng chính là động lực thúc đẩy người lao động nói chung, người trí
thức nói riêng. Lao động sáng tạo của trí thức là lao động phức tạp,
bằng lao động của mình, người trí thức sáng tạo ra các sản phẩm có giá
trị cao với xã hội, được xã hội thừa nhận đóng góp vào sự phát triển và
nhận được mức bồi hoàn xứng đáng.
Bản
thân cơ chế thị trường cũng thúc đẩy sự cạnh tranh, vừa kích thích, đòi
hỏi người lao động phải nâng cao năng lực trình độ, vừa là cơ chế đáp
ứng, bồi hoàn sức lao động đã cống hiến. Nói cách khác cơ chế kinh tế
thị trường tạo ra động lực cho phát huy giá trị của nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao.
|
Tuy nhiên cũng vì thúc đẩy chạy theo lợi
ích kinh tế, dẫn đến hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh, nếu như môi
trường luật pháp chưa hoàn thiện cũng như ý thức và trách nhiệm của
người lao động xuống cấp. Điều này dẫn đến thiếu trung thực trong hoạt
động nghiên cứu sáng tạo, cấu kết, tham ô…làm cho không những không phát
huy được vai trò của đội ngũ trí thức mà ngược lại gây thiệt hai, mất
mát cho xã hội. Những hiện tượng gần đây liên quan đến thị trường thuốc
và kit xét nghiệm phòng chống dịch Covid-19 là minh chứng điển hình cho
sự suy thoái xuống cấp của một bộ phận trong đội ngũ trí thức. Thực
trạng này đặt ra yêu cầu, đi liền với đào tạo nâng cao trình độ chuyên
môn, rất cần sự rèn luyện bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp với đội ngũ
trí thức trong nền kinh tế thị trường.
Hệ thống thể chế, chính sách, quy định đãi ngộ, đánh giá và tôn vinh đội ngũ trí thức
Hệ thống thể chế, chính sách, quy định đãi
ngộ, đánh giá và tôn vinh đối với trí thức là một trong những yếu tố
quan trọng có tác động lớn đến phát huy vai trò đội ngũ trí thức. Hệ
thống thể chế quy định địa vị pháp lý góp phần tạo môi trường làm việc
thuận lợi. Cùng với đó, các chính sách phù hợp tạo sự công bằng, bình
đẳng, minh bạch, là động lực cho sự cống hiến. Đi liền với đó là sự động
viên, tôn vinh kịp thời. Các chính sách này không chỉ tạo điều kiện cho
trí thức cống hiến, mà còn khuyến khích, thúc đẩy niềm tự hào, tinh
thần trách nhiệm của người trí thức.
BOX:
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, việc bảo đảm thu
nhập đủ sống cho đội ngũ trí thức, không chỉ bảo đảm điều kiện cho người
trí thức toàn tâm cống hiến, mà còn là cơ sở bảo đảm chuẩn mực liêm
khiết trong hoạt động khoa học.
Một
vấn đề đáng chú ý hiện nay, việc quản lý, đánh giá trí thức về cơ bản
vẫn thực hiện theo quy trình chung như đối với tất cả các loại nhân lực
khác, chưa được quan tâm đúng mức, chưa thực sự chú ý tạo điều kiện cần
thiết để đội ngũ trí thức phát huy năng lực. Hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ và tự do học thuật chưa đồng bộ.
Bên cạnh đó cũng chưa có cơ chế, chính sách đào tạo, tuyển dụng, bố
trí, sử dụng và trả công có tính đặc thù áp dụng riêng cho đội ngũ trí
thức, thiếu chính sách và cơ chế để trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh bằng chính kết quả hoạt động chuyên môn nghề nghiệp.
Trong thực tế, đôi khi còn hành chính hóa các hoạt động của trí thức,
gây không ít khó khăn cho việc tập trung vào lao động sáng tạo. Chính
tình trạng này ảnh hưởng không nhỏ đến thu hút, đào tạo và phát huy vai
trò đội ngũ trí thức mới, thậm chí còn dẫn đến làm tình trạng chảy máu
chất xám thêm phức tạp.
Do
vậy, để phát huy hiệu quả đội ngũ trí thức, một trong những việc cần
làm là nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách, quy định đánh giá, đãi
ngộ phù hợp, thậm chí cần có những ưu đãi đặc thù với đội ngũ trí thức.
Tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhằm bảo đảm lợi
ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng chế và khuyến khích đội
ngũ trí thức gia tăng sự cống hiến. Đồng thời, tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của đội ngũ trí thức.
Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển
Để
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, ngoài các cơ chế chính sách, nhà
nước cần huy động các nguồn lực xã hội đầu tư vào nghiên cứu và phát
triển khoa học công nghệ. Trước hết là đầu tư phát triển các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao kết quả nghiên cứu. Theo định hướng
và mục tiêu đặt ra, nhà nước thông qua cơ chế đặt hàng để thu hút đội
ngũ trí thức tham gia giải quyết các vấn đề khoa học công nghệ đặt ra
trước yêu cầu phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đi liền đó,
cần thực hiện cải cách hành chính, đơn giản hoá các thủ tục để tạo điều
kiện cho các nhà khoa học tập trung vào nghiên cứu, sáng tạo. Thực tế
hiện nay mức đầu tư cho khoa học công nghệ ở Việt Nam còn hạn chế;tỷ lệ chi cho khoa học - công nghệ chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước.
Cùng
với nguồn đầu tư từ nhà nước, thông qua các cơ chế, chính sách, khuyến
khích các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cá nhân đầu tư vào hoạt
động đào tạo và nghiên cứu.
Kinh
nghiệm phát triển khoa học công nghệ của các quốc gia trong khu vực cho
thấy, phần đầu tư cho nghiên cứu phát triển và triển khai của khu vực
ngoài nhà nước ngày càng tăng, thu hút và phát huy ngày càng hiệu quả
đội ngũ trí thức tham gia đóng góp vào sự phát triển, hạn chế tình trạng
chảy máu chất xám.
Từ
kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, để gia tăng sự đóng góp của đội
ngũ trí thức cũng như để thúc đẩy phát triển hơn nữa khoa học công nghệ
nước nhà, đầu tư của Việt Nam cho nghiên cứu và phát triển nên tập trung
theo các hướng cơ bản sau: Một là,
đầu tư cho phát triển nhân lực để sẵn sàng có lao động tay nghề cao cho
hoạt động R&D. Nâng cao chất lượng của các trường đại học, trung
tâm nghiên cứu và cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ, đồng thời có
những chính sách về thu hút và hỗ trợ nhà nghiên cứu tài năng, chính
sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực về khoa học, công
nghệ. Hai là, triển khai một số cơ chế, chính sách mở linh hoạt
hơn để tạo sự khác biệt, linh hoạt, hấp dẫn nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp đầu tư cho hoạt động R&D. Khuyến khích doanh nghiệp lập và sử
dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của mình. Ba là,
tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua chính sách hỗ trợ, ưu
đãi đặc thù đối với một số dự án “chủ lực” nhằm tạo động lực lan tỏa
thu hút các dự án FDI có hoạt động R&D đặc biệt ưu tiên cho lĩnh vực
công nghệ cao, công nghệ tiên tiến. Bốn là, tăng cường các
biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp thực thi bảo hộ
trí tuệ và các hoạt động sở hữu trí tuệ được tập trung triển khai theo
hướng phục vụ hoạt động đổi mới sáng tạo, tạo dựng và phát triển tài sản
trí tuệ của tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong nước, hướng đến hình
thành một nền kinh tế thâm dụng trí tuệ ở Việt Nam(1).
Trình độ, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ trí thức
Trình
độ của đội ngũ trí thức được xem là điều kiện đầu tiên, điều kiện cần
có để sử dụng và phát huy sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức vào
sự phát triển của mỗi quốc gia. Trình độ không hẳn thể hiện ở bằng cấp
mà thể hiện ở năng lực giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Đội ngũ
trí thức được đánh giá cao khi có nhiều kết quả nghiên cứu giải quyết
các vấn đề của đời sống trong nước và quốc tế. Một trong những tiêu chí
quan trọng là số lượng các công trình khoa học được công bố bởi các nhà
xuất bản có uy tín trong nước và quốc tế. Do vậy muốn phát huy tốt vai
trò đội ngũ trí thức, điều đầu tiên cần có chính sách quan tâm đến đào
tạo, phát triển đội ngũ trí thức có năng lực, trình độ sánh ngang với
các quốc gia khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó,
trình độ mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để trở
thành trí thức, bởi một người có trình độ học vấn cao chỉ có thể trở
thành trí thức khi người đó đem tri thức của mình áp dụng vào hoạt động
lao động, sáng tạo, áp dụng vào thực tế xã hội, để phục vụ xã hội. Nói
cách khác việc phát huy đội ngũ trí thức còn phụ thuộc vào ý thức và
trách nhiệm của chính người trí thức nói riêng và đội ngũ trí thức nói
chung. Để có được điều này, đi liền với đào tạo chuyên môn, cần đào tạo
giáo dục về ý thức trách nhiệm, về đạo đức của người trí thức. Vai trò
của người tri thức thực sự được phát huy tác dụng cao nhất khi họ ý thức
được lao động vì sự phát triển đất nước, vì hạnh phúc của chính họ và
người dân./.
------------------------------------------------------------
(1) Cục ứng dụng và phát triển công nghệ: Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển: kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam, most.gov.vn, ngày 29/6/2022